logo2

banner

Suckhoedoisong.vn - Dinh dưỡng không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe nói chung của người phụ nữ mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe sinh sản. Sự cân bằng của nội tiết tố có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố từ thực phẩm.

Đối với phụ nữ dinh dưỡng có thể giúp tăng chất lượng của trứng, kích thích trứng rụng, tăng khả năng trứng làm tổ, duy trì nồng độ hormone sinh dục nữ, tránh nguy cơ sảy thai.

Một chế độ ăn cân bằng sẽ giúp cho phụ nữ có cân nặng lý tưởng có chỉ số BMI từ 19 - 24 thì khả năng sinh sản tốt hơn vì hormon estrogen được sản sinh ra từ buồng trứng và tế bào mỡ. Hormon này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình rụng trứng. Nếu phụ nữ quá gầy việc sản sinh ra estrogen bị thiếu hụt, còn phụ nữ quá béo lại sản sinh quá nhiều hormon này. Sự thiếu hụt hoặc quá thừa hormon đều ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản. Ngoài ra, nhiều chất dinh dưỡng khác cũng ảnh hưởng đến cân bằng nội tiết và cải thiện chất lượng của trứng. Vậy những chất dinh dưỡng nào có ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản của phụ nữ?

sức khỏe sinh sản nữChế độ ăn uống cân bằng sẽ giúp cho phụ nữ có cân nặng lý tưởng và khả năng sinh sản tốt hơn.

Kẽm

Ở nữ giới kẽm có tác dụng thúc đẩy sự rụng trứng và khả năng thụ thai, hỗ trợ sản xuất hormon sinh dục. Kẽm có nhiều trong các loại thực phẩm: Hàu, sò, thịt bò, cừu, gà, lợn nạc, sữa, trứng, cá, tôm, cua… trong đó nhiều nhất là hàu.

Acid béo omega 3

Đóng vai trò quan trọng giúp kích thích các hormon trong cơ thể. Các acid béo omega-3 giúp loại bỏ u xơ tử cung cũng như ngăn ngừa ung thư tử cung. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất béo omega 3 thúc đẩy rụng trứng. DHA từ cá béo có thể làm tăng progesterone – một trong những hormon quan trọng nhất mà phụ nữ cần để duy trì sức khỏe thai nhi sau khi thụ thai. Acid béo omega-3 giúp lưu thông máu tốt hơn. Các acid béo thiết yếu như palmitoleic, linoleic, oleic và palmitic giúp giảm tình trạng khô âm đạo. Hơn thế nữa, acid béo từ thực vật còn làm giảm tình trạng bị chuột rút và đau bụng khi đến chu kỳ kinh nguyệt.

Để tăng khả năng thụ thai, bạn nên đảm bảo cung cấp khoảng 1.000 - 2.000 mg acid béo omega 3 trong chế độ dinh dưỡng của mình. Không những vậy, khi bổ sung đủ lượng omega 3 cần thiết trước khi mang thai sẽ giúp bé phát triển vượt trội cả trong và sau thai kỳ.

Acid béo omega-3 bao gồm 3 dạng: DHA (axit docosahexaenoic), ALA (axit alpha-linolenic) và EPA (axit eicosapentaenoic). Chúng có trong các loại thực phẩm sau: Cá nước lạnh (cá hồi tự nhiên, cá mòi, cá trích…); các loại dầu thực vật (dầu đậu nành, dầu hạt cải, hướng dương, dầu oliu…, quả óc chó, hạnh nhân, lạc vừng...; các sản phẩm từ đậu nành (đậu phụ, sữa đậu nành)…

Protein

Chế độ ăn đủ protein sẽ giúp nâng cao chất lượng trứng. Lòng trắng trứng, thịt gia cầm, cá và các loại đậu là những nguồn protein chất lượng cao bạn nên bổ sung vào thực đơn hằng ngày của gia đình.

Acid folic

Trong danh sách “ăn gì để dễ thụ thai” không thể thiếu các loại thực phẩm có chứa acid folic. Trong thời gian trước khi có ý định mang thai người vợ cần phải tiêu thụ 400 microgam acid folic mỗi ngày. Bổ sung đều đặn vi chất này trước 3 tháng thụ thai sẽ đảm bảo sự phát triển khỏe mạnh của hệ thần kinh cho bé, tránh dị tật nứt đốt sống và thai vô sọ.

Nguồn thực phẩm giàu axit folic: Trái cây họ cam quýt, ngũ cốc nguyên hạt và rau lá xanh như cải bó xôi, súp - lơ xanh, rau diếp, xà lách…

Vitamin B6

Giúp ngăn ngừa các triệu chứng thai nghén, trước khi thụ thai người phụ nữ cần hấp thụ khoảng 10mg vitamin B6 mỗi ngày.

Vitamin B6 có nhiều trong các loại thực phẩm như hạt hạnh nhân, hạt hướng dương và trong các loại trái cây quen thuộc miền nhiệt đới như cam và dâu tây, chuối…

Vai trò của dinh dưỡng Bổ sung rau, củ quả trong chế độ ăn còn giúp chống lão hóa.

Vitamin E

Là một trong những vitamin quan trọng nhất cho hoạt động của cơ thể, vitamin E cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh sản. Một chế độ ăn nghèo vitamin E có thể dẫn đến vô sinh, hơn nữa đây còn là thành phần chủ chốt giúp cải thiện chức năng và sức khỏe của tế bào. Vitamin E cũng là hợp chất thiết yếu được tìm thấy trong trứng. Ngoài việc bảo vệ màng tế bào chống lại tác hại của các gốc tự do, vitamin E cũng hoạt động như một chất chống oxy hóa hiệu quả giúp cải thiện chức năng miễn dịch.  Ngoài ra, vitamin E còn góp phần cải thiện khả năng tình dục, giúp noãn (trứng) phát triển tốt hơn.

Một chế độ ăn cân bằng sẽ giúp cho phụ nữ có cân nặng lý tưởng có chỉ số BMI từ 19 - 24 thì khả năng sinh sản tốt hơn vì hormone estrogen được sản sinh ra từ buồng trứng và tế bào mỡ…

Các loại thực phẩm giàu vitamin E: Mầm các loại hạt ngũ cốc, giá sống, một số loại rau, trong các hạt nhiều dầu như dầu mè, đậu phộng, đậu nành, hạt hướng dương, quả bơ…

Vitamin C

Một trong những vitamin phổ biến nhất có liên quan đến khả năng sinh sản là vitamin C. Vai trò của vitamin C giúp tăng cường tổng hợp hormon progesterone (một loại hormon giới tính giúp duy trì thai). Progesterone giúp điều hòa chu kỳ kinh nguyệt, củng cố thành tử cung, và giải tỏa căng thẳng lo âu. Progestone thường được chỉ định cho các trường hợp khó thụ thai hoặc khó giữ thai. Các nguồn vitamin C tự nhiên tốt cho cơ thể bao gồm các trái cây thuộc họ cam quýt, bông cải xanh, và ớt chuông xanh.

Các vitamin nhóm B

Cũng đã được chứng minh là làm tăng hàm lượng progesterone, và có tác dụng điều hòa chu kỳ kinh nguyệt. Nguồn thực phẩm giàu vitamin nhóm B là ngũ cốc, đậu đỗ, thịt, cá…

Magie

Người phụ nữ nào bị thiếu hụt magie trong cơ thể sẽ gặp khó khăn trong việc thụ thai. Bởi magie đóng vai trò quan trọng trong việc kích hoạt sản sinh các hormon sinh sản. Muốn bổ sung magie, bạn có thể lựa chọn việc ăn dứa, chuối mỗi ngày và các loại ngũ cốc nguyên hạt.

ThS.BS. Lê Thị Hải

Nguồn trên trang: http://viendinhduong.vn/

Hiện nay, tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt nam, có hình thái bệnh tật chuyển đổi từ các bệnh nhiễm trùng là chủ yếu sang các bệnh không lây truyền là chính. Theo thống kê gần đây cho thấy 75% số trường hợp tử vong ở Việt Nam là do các bệnh không lây nhiễm, trong đó đứng đầu là các bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư, loãng xương, gout … Các số liệu điều tra toàn quốc ở người trưởng thành cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp tăng gần gấp 2 lần sau 13 năm (từ 11,2% năm1992 lên 20,7% vào năm 2005); tỷ lệ thừa cân-béo phì tăng gấp 2 sau 5 năm (từ 3,5% năm 2000 lên 6,6% vào năm 2005); tỷ lệ đái tháo đường tăng gấp hơn 2 lần sau 10 năm (từ 2,7% năm 2002 lên 5,7% vào năm 2012). Ở các thành phố lớn, các tỷ lệ này còn cao hơn nhiều. Chế độ dinh dưỡng bất hợp lý là một yếu tố nguy cơ quan trọng hàng đầu dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng của phần lớn các bệnh mạn tính không lây này.

Dinh dưỡng hợp lý là nền tảng của sức khỏe và trí tuệ. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý đáp ứng đủ nhu cầu cơ thể trong các giai đoạn khác nhau của chu kỳ vòng đời sẽ tạo ra sự tăng trưởng và phát triển tối ưu cho thai nhi và trẻ nhỏ, cũng như phòng chống hữu hiệu với đa số bệnh tật để có một thể lực khỏe mạnh, sức khỏe tốt, năng suất lao động cao và chất lượng cuộc sống tốt cho mọi lứa tuổi. Bữa ăn gia đình chính vì vậy có vai trò vô cùng quan trọng và cần được đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Một bữa ăn cân đối cần có đủ 4 nhóm thực phẩm là nhóm bột đường (chủ yếu từ các loại ngũ cốc), nhóm chất đạm (thịt, cá, trứng, sữa, các loại đậu, đỗ...), nhóm chất béo (mỡ động vật, dầu thực vật), nhóm vitamin và khoáng chất (các loại rau, củ, quả...).

Đầu tiên phải kể đến là nhóm bột đường, đây là nguồn cung cấp năng lượng chính cho cơ thể hoạt động. Trong bữa ăn của người Việt Nam thì gạo là lương thực được sử dụng nhiều nhất. Hiện nay trên thị trường thường bán các loại gạo trông rất trắng và đẹp mắt nhưng để được như vậy thì phải qua quá trình xay sát kỹ nên đã làm mất đi các chất dinh dưỡng cần thiết và có lợi cho sức khỏe như các vitamin nhóm B, nhất là vitamin B1, chất xơ… Gạo lứt là một ví dụ của gạo không bị xay sát kỹ, có chứa hàm lượng dinh dưỡng cao hơn và đã được chứng minh có tác dụng hỗ trợ trong việc kiểm soát đường huyết, do đó hỗ trợ dự phòng và điều trị bệnh đái tháo đường. Ngoài ra, cũng nên ăn thay đổi các loại ngũ cốc khác (như khoai lang, khoai tây, ngô …) để làm đa dạng các loại thực phẩm, tăng cường lợi ích cho sức khỏe. Người Việt thường có thói quen ăn nhiều cơm, do đó làm cho tính cân đối của khẩu phần không được đảm bảo. Với người trưởng thành, năng lượng từ nhóm các chất bột đường chỉ nên chiếm 60-65% tổng năng lượng khẩu phần, phần còn lại do chất béo cung cấp (chiếm 20-25%) và chất đạm (chiếm 10-15%).

Nhóm chất đạm cung cấp các thành phần thiết yếu để xây dựng nên cơ thể, đảm bảo cơ thể tăng trưởng và duy trì nhiều hoạt động sống, tăng cường sức đề kháng của cơ thể chống lại bệnh tật. Cần ăn phối hợp cả thực phẩm giàu đạm động vật (như thịt, cá, trứng, sữa...) và đạm thực vật (từ các loại đậu, đỗ…). Các loại thịt đỏ (như thịt lợn, thịt bò …) có nhiều sắt giúp phòng chống thiếu máu thiếu sắt, đặc biệt quan trọng đối với trẻ nhỏ, phụ nữ có thai và phụ nữ tuổi sinh đẻ. Tuy nhiên ăn nhiều thịt đỏ lại làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, ung thư, gout… do đó không nên ăn quá nhiều. Nên tăng cường ăn các loại thịt gia cầm (như gà, vịt, ngan, chim…) và nên ăn ít nhất 3 bữa cá mỗi tuần. Các loại cá nhỏ nấu nhừ ăn cả xương, tôm và tép ăn cả vỏ và cua là nguồn cung cấp canxi tốt cho cơ thể. Các loại hạt đậu, đỗ cũng là nguồn đạm thực vật tốt.

Nhóm chất béo (mỡ động vật và dầu thực vật) giúp cung cấp năng lượng cho cơ thể hoạt động và tăng trưởng, hỗ trợ hấp thu các vitamin tan trong dầu, mỡ như vitamin A, D, E, K. Mỡ động vật thường chứa nhiều chất béo bão hòa, khó hấp thu, vì thế nên sử dụng hạn chế. Mỡ cá và mỡ gia cầm lại có nhiều chất béo chưa bão hòa, đặc biệt là omega 3, omega 6, omega 9, rất có lợi cho sức khỏe. Các loại dầu thực vật cũng thường có nhiều chất béo chưa bão hòa nên có tác dụng tốt cho tim mạch và được khuyến khích tiêu thụ như dầu đậu nành, dầu mè, dầu hướng dương, dầu hạt cải… Nhưng cũng có một số loại dầu thực vật có chứa nhiều chất béo bão hòa (như dầu cọ) vì thế cũng không nên ăn nhiều. Không nên ăn quá nhiều các món xào, rán, nướng, mà nên tăng cường ăn các món luộc, hấp để giảm mất mát các chất dinh dưỡng và không làm biến đổi thực phẩm thành các chất có thể gây tác hại cho sức khỏe (vì các món luộc thì không bị tác động nhiều bởi nhiệt độ cao như các món xào, rán, nướng; hơn nữa lại hạn chế được việc sử dụng muối). Dầu, mỡ để rán chỉ lấy một lượng vừa đủ, dùng một lần rồi đổ bỏ, không dùng lại nhiều lần; hạn chế ăn đồ nướng vì làm tăng nguy cơ gây ung thư. Thực phẩm chế biên sẵn như mì ăn liền có nhiều chất béo chuyển hóa thể trans cũng làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, vì thế nên hạn chế tiêu thụ.

Nhóm vitamin và khoáng chất (các loại rau, củ, quả...) cung cấp các yếu tố vi lượng cũng như các chất bảo vệ, giúp cơ thể phát triển khỏe mạnh, tăng cường sức đề kháng, chống lại bệnh tật ở mọi lứa tuổi. Các loại rau lá màu xanh sẫm và các loại rau và quả màu vàng, đỏ là nguồn cung cấp vitamin A giúp sáng mắt, tăng sức đề kháng, cung cấp chất sắt giúp chống thiếu máu thiếu sắt, đặc biệt giúp cho cơ thể trẻ em tăng trưởng và phát triển tốt. Bên cạnh đó rau, quả còn chứa nhiều chất xơ và các chất chống oxy hóa nên có tác dụng nâng cao sức khỏe và phòng chống các bệnh mạn tính không lây. Ăn ít rau và trái cây được cho là nguyên nhân của 1,7 triệu trường hợp tử vong, chiếm 2,8% tổng số trường hợp tử vong trên thế giới. Ăn ít rau và trái cây còn được ước tính là nguyên nhân của 19% số ung thư dạ dày ruột, 31% các bệnh thiếu máu tim cục bộ, và 11% số trường hợp đột quỵ. Số liệu từ các cuộc tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc trong giai đoạn 1989 – 2010 của Viện Dinh dưỡng cho thấy: mức tiêu thụ rau và trái cây trung bình là khoảng 250 g/người/ngày (đạt 62,5% nhu cầu khuyến nghị), trong đó chỉ có mức tiêu thụ quả chín tăng từ 2,2g/người/ngày lên 60,9g/người/ngày, trong khi mức tiêu thụ rau các loại không tăng và chỉ đạt 190g/người/ngày vào năm 2010. Điều tra năm 2009-2010 cho thấy có 80,4% số người trưởng thành ăn ít rau quả. Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo nên ăn ít nhất 400gam rau, quả mỗi ngày, có tác dụng phòng chống các bệnh mạn tính liên quan đến dinh dưỡng như các bệnh tim mạch, ung thư dạ dày và ung thư đại trực tràng. Trẻ em cũng cần được tập cho ăn rau với cách chế biến phù hợp. Những người thừa cân, béo phì, rối loạn đường huyết, đái tháo đường nên lưu ý hạn chế các loại quả chín ngọt và nhiều năng lượng như chuối, xoài, mít, vải …

Ăn thừa muối làm tăng nguy cơ tăng huyết áp, tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim, ung thư dạ dày, loãng xương, sỏi thận … Hiện nay đa số người dân đều ăn thừa muối từ 2 đến 3 lần so với nhu cầu khuyến nghị là 5 gam muối/ngày. Do vậy cần chú ý giảm các loại gia vị mặn chứa nhiều muối được cho vào trong quá trình nấu ăn; hạn chế ăn các món kho, rim, rang; hạn chế ăn các thực phẩm chế biến sẵn thường chứa nhiều muối như giò, chả, xúc xích, thịt xông khói, mì ăn liền, bánh mì, bim bim, các món ăn rang muối, dưa cà muối, cá khô...; hạn chế chấm nước mắm, muối, bột canh, tốt nhất là khi ăn các loại nước chấm thì nên pha loãng, dùng thêm các gia vị khác như chanh, ớt, tỏi để tăng vị giác bù cho vị mặn bị bớt đi. Nên sử dụng muối và bột canh có iốt để phòng chống bướu cổ, thiểu năng trí tuệ và các rối loạn khác do thiếu iốt.

Mỗi lứa tuổi cần có những lưu ý riêng về chế độ ăn uống để đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng và phù hợp đặc điểm của từng nhóm đối tượng. Đối với trẻ nhỏ cần được chế biến thức ăn riêng phù hợp, đối với trẻ đã ăn chung đồ ăn của gia đình và người cao tuổi thì cần lưu ý chế biến các món ăn đủ dinh dưỡng và dễ nhai nuốt. Trẻ sau 6 tháng tuổi và người trưởng thành cần tiêu thụ sữa và các sản phấm của sữa phù hợp với lứa tuổi để nâng cao chất lượng dinh dưỡng khẩu phần, đặc biệt là khẩu phần đạm dễ hấp thu, khẩu phần canxi vốn rất thiếu trong chế độ ăn của người Việt, giúp trẻ tăng trưởng và phát triển bình thường; giúp người trưởng thành phòng chống loãng xương.

Uống đủ nước sạch hàng ngày (trung bình khoảng 1,5-2 lít) cũng cần thiết để có cơ thể khỏe mạnh, nhất là trong những ngày nắng nóng. Cần hạn chế và không lạm dụng rượu, bia. Điều tra toàn quốc ở người trưởng thành 25-64 tuổi của Viện Dinh dưỡng cho thấy nguy cơ mắc tăng huyết áp tăng gấp 1,6 lần ở nam giới uống trên 3 đơn vị rượu/ngày. Đối với nam giới nên uống không quá 2 đơn vị rượu (tương đương 2 cốc vại bia hoặc 2 chén 30ml rượu mạnh) hoặc nữ giới không nên quá 1 đơn vị rượu mỗi ngày.

Trong xã hội phát triển ngày nay ngày càng có nhiều các thực phẩm, món ăn chế biến sẵn với nhiều dầu, mỡ, đường, muối như các món ăn nhanh với khoai tây chiên, gà rán, pizza, sandwich …, nước ngọt có ga và không có ga, các loại bánh kẹo, xúc xích, thịt xông khói, giò, chả, bim bim… Các thực phẩm này ẩn chứa nhiều nguy cơ có hại cho sức khỏe (như béo phì, tăng huyết áp, rôi lọan đường huyết, các bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư ….) nếu tiêu thụ thường xuyên, nhưng vì tính tiện dụng và mới lạ cùng với sự quảng cáo, tiếp thị đầy cám dỗ đã cuốn hút không ít bộ phận dân cư, đặc biệt là trẻ nhỏ và giới trẻ tiêu thụ ngày càng nhiều. Điều này cần được các gia đình, các bậc phụ huynh quan tâm.

Mọi thực phẩm đều có những lợi ích và cả những tác dụng bất lợi, nhất là khi sử dụng quá nhiều. Do đó nên sử dụng hợp lý và đa dạng các loại thực phẩm trong từng món ăn và từng bữa ăn để có chế độ ăn hợp lý giàu dinh dưỡng và nâng cao sức khỏe. Bên cạnh đó cũng không quên đảm bảo an toàn vệ sinh trong lựa chọn, chế biến và bảo quản thực phẩm để có những bữa ăn an toàn cho gia đình bạn. Đảm bảo bữa ăn gia đình hợp lý và an toàn cho gia đình là cách tốt nhất để bảo vệ gia đình bạn chống lại bệnh tật và còn làm tăng thêm tình cảm, sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình khi hàng ngày cùng nhau quây quần bên mâm cơm gia đình có dinh dưỡng hợp lý, ngon, rẻ và an toàn.

TS.BS. Đỗ Thị Phương Hà - Viện Dinh dưỡng Quốc gia

 

 

1. Hoa quả mốc

Sau khi trái cây bị mốc cũng sẽ sinh ra độc tố aflatoxin, độc tố này rất dễ gây ung thư, chỉ cần một lượng nhỏ cũng có thể gây ung thư cho cơ thể người, vì vậy thực phẩm bị mốc không thể tiếp tục được. Nếu phát hiện ra thì phải vứt ngay.

Cô gái 27 tuổi phát hiện mắc bệnh gan giai đoạn cuối vì mỗi ngày đều uống loại trà dưỡng nhan, bồi bổ sai cách - Ảnh 3.

2. Đồ nướng

Nói chung, đồ nướng khi nướng sẽ cho nhiều muối, điều này làm cho đồ ăn chứa nhiều nitrit, nitrit khi vào cơ thể người sẽ tạo ra amoni nitrit, chất này có hại cho cơ thể người. Sau một thời gian dài nướng sẽ sinh ra chất gây ung thư có tên là benzopyrene, do đó, việc nướng thịt thường xuyên rất dễ gây ung thư cho cơ thể.

Cô gái 27 tuổi phát hiện mắc bệnh gan giai đoạn cuối vì mỗi ngày đều uống loại trà dưỡng nhan, bồi bổ sai cách - Ảnh 4.

Nguồn tham khảo và ảnh: QQ, Aboluowang

Chi tiết: https://kenh14.vn/co-gai-27-tuoi-phat-hien-mac-benh-gan-giai-doan-cuoi-vi-moi-ngay-deu-uong-loai-tra-duong-nhan-boi-bo-sai-cach-20201214095654694.chn

Nguyên nhân nào có thể gây đột quỵ?

*Các yếu tố không thể thay đổi

- Tuổi tác: Bất cứ ai cũng có nguy cơ bị đột quỵ. Tuy nhiên, người già có nguy cơ đột quỵ cao hơn người trẻ. Kể từ sau tuổi 55, cứ mỗi 10 năm, nguy cơ mắc đột quỵ lại tăng lên gấp đôi.

- Giới tính: Nam giới có nguy cơ bị đột quỵ cao hơn nữ giới.

- Tiền sử gia đình: Những người có người thân trong gia đình từng bị đột quỵ thường có nguy cơ mắc đột quỵ cao hơn người bình thường.

*Các yếu tố bệnh lý

- Tiền sử đột quỵ: Người có tiền sử bị đột quỵ có nguy cơ cao bị đột quỵ lần tiếp theo, nhất là trong vòng vài tháng đầu. Nguy cơ này kéo dài khoảng 5 năm và giảm dần theo thời gian.

- Đái tháo đường, cao huyết áp, bệnh tim mạch, mỡ máu.

- Thừa cân, béo phì: Người bị thừa cân béo phì có thể dẫn đến nhiều bệnh như cao huyết áp, mỡ máu, tim mạch, từ đó làm tăng nguy cơ bị đột quỵ.

- Hút thuốc: Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, người hút thuốc có nguy cơ bị đột quỵ cao gấp 2 lần. Khói thuốc làm tổn thương thành mạch máu, gia tăng quá trình xơ cứng động mạch. Thuốc lá cũng gây hại cho phổi, khiến tim làm việc nhiều hơn, gây tăng huyết áp.

- Lối sống không lành mạnh: Thức khuya, ăn uống không điều độ, không cân bằng đầy đủ các loại dưỡng chất; lười vận động là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ.

Ngoài ra, đột quỵ cũng được cho là có liên quan đến việc sử dụng các chất kích thích, uống quá nhiều rượu là một nguyên nhân điển hình.

Rất nhiều trường hợp đột quỵ ở mọi độ tuổi khác nhau, căn bệnh này có thể cướp đi mạng sống của bất cứ ai vào bất cứ lúc nào

Được biết, cố nghệ sĩ Chí Tài qua đời do đột quỵ sau khi tập thể dục. Trong khi đó, việc tập luyện lại là một hoạt động rất tốt để cải thiện sức khỏe. Tuy nhiên, nếu tập luyện sai cách, không phù hợp với thể lực của bản thân thì sẽ có "những cái chết không báo trước" do đột quỵ, dù ở độ tuổi trẻ vẫn có thể xảy ra.

Đột quỵ: Bệnh lý vừa khiến NS Chí Tài qua đời cũng có thể đột ngột cướp đi mạng sống của bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào - Ảnh 3.
 

Một vài dấu hiệu nhận biết sớm người bị đột quỵ

- Cơ thể mệt mỏi, đột nhiên cảm thấy không còn sức lực, tê cứng mặt hoặc một nửa mặt, nụ cười bị méo mó.

- Cử động khó hoặc không thể cử động chân tay, tê liệt một bên cơ thể. Dấu hiệu đột quỵ chính xác nhất là không thể nâng hai cánh tay qua đầu cùng một lúc.

- Khó phát âm, nói không rõ chữ, bị dính chữ, nói ngọng bất thường. Bạn có thể thực hiện phép thử bằng cách nói những câu đơn giản và yêu cầu người bệnh nhắc lại, nếu không thể nhắc lại được thì người bệnh đó đang có những dấu hiệu đột quỵ.

Đột quỵ: Bệnh lý vừa khiến NS Chí Tài qua đời cũng có thể đột ngột cướp đi mạng sống của bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào - Ảnh 5.

 

- Hoa mắt, chóng mặt, người mất thăng bằng đột ngột, không phối hợp được các hoạt động.

- Thị lực giảm, mắt mờ, không nhìn rõ.

- Đau đầu dữ dội, cơn đau đầu đến rất nhanh, có thể gây buồn nôn hoặc nôn

Các triệu chứng đột quỵ nhỏ của bệnh nhân sẽ kéo dài trong vòng 24 giờ và sớm biến mất trong vòng 1 giờ sau khi xuất hiện triệu chứng. Vì các triệu chứng kéo dài trong một thời gian ngắn, bệnh nhân có thể sẽ không để ý đến.

Trên lâm sàng, sau cơn đột quỵ nhẹ, bệnh nhân sẽ trải qua cơn đột quỵ nặng trong vòng một tháng sau đó, tuy nhiên có 5% bệnh nhân sẽ gặp tình trạng đột quỵ nặng trong vòng 48 giờ sau.

Làm gì khi gặp người bị đột quỵ?

Người bệnh cần được cấp cứu càng sớm càng tốt để tránh xảy ra biến chứng nguy hiểm, do đó không nên chờ đợi hay kéo dài thời gian lúc đó. Đặc biệt, bạn cũng cần lưu ý tới thời gian các triệu chứng bắt đầu xuất hiện để thông báo với nhân viên y tế khi cấp cứu.

Nếu không chắc chắn nguy cơ của đột quỵ hoặc người bệnh có thể phủ nhận nguy cơ bệnh vì chủ quan thì cần cho họ biết mức độ nguy hiểm và yêu cầu họ giữ thăng bằng, sau đó chuyển tới bệnh viện sớm hoặc gọi cấp cứu nếu có thể.

Nguồn tổng hợp: Healthline, Skypost, Bastillepost, BV Bạch Mai, BV ĐK Quốc tế Vinmec, Weibo, Health, Sina, Show thực tế Chase Me

Tin xem nhiều

Hè Vui 2019 rộn rã ngày ...

Ngày 10/6 vừa qua, chương trình Hè Vui 2019 của ...

"Em vẽ ước mơ cho em" ...

Đây là lần thứ 12 cuộc thi vẽ: "Em vẽ ước mơ cho ...

"Uống nước nhớ nguồn" ...

Chủ điểm tháng 12 "uống nước nhớ nguồn" hướng tới ...

10 tᴜyệt chiêᴜ dạy con ...

(theo nguồn báo Phụ nữ) “Đẻ con thì đaᴜ đớn, ...

3 Công Khai theo quy ...

3 Công Khai theo quy ...

4 loại thực phẩm có thể ...

THEO PHÁP LUẬT & BẠN ĐỌC Ai cũng mong ...

5 thói quen xấu khi đi ...

Nguồn và ảnh: Sohu, Kknews, Women's Health Ngoài ...

7 BỆNH DỄ MẮC KHI THỜI ...

(Nguồn từ trang https://medelab.vn/)Thời tiết ...

9 lỗi sai trong việc đi ...

THEO TRÍ THỨC TRẺ Đi bộ có thể cải thiện ...

  • Prev
  • Sách hay của em
Scroll to top